Home » Công Thức Thành Công
Được đăng bởi
Unknown
|
May 4, 2015
Những Nhà Đầu Tư Vĩ Đại Nhất Thế Giới
Những nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới có các chiến lược và triết lý kinh doanh khác nhau: một số tìm ra những phương pháp phân tích đầu tư mới và sáng tạo, trong khi một số khác lại lựa chọn cổ phiếu gần như theo bản năng. Tuy nhiên, có một điểm mà các nhà quản lý một dòng tiền lớn giống như những ngôi sao nhạc rock của thế giới tài chính. Những nhà đầu tư vĩ đại nhất đã kiếm bộn tiền nhờ vào các phi vụ thành công của mình và trong nhiều trường hợp, họ còn giúp hàng triệu người khác có được doanh thu tương tự.
Benjamin Graham
Benjamin Graham là một quản lý đầu tư và là nhà giáo dục tài chính xuất sắc. Ông là tác giả của hai tác phẩm kinh điển về đầu tư là “Securities Analysis - Phân tích chứng khoán” và “The Intelligent Investor - Nhà đầu tư thông minh”. Ông cũng được công nhận là cha đẻ của hai nguyên tắc đầu tư cơ bản là phân tích chứng khoán và đầu tư giá trị.
Bản chất nguyên tắc đầu tư giá trị của Graham là bất kỳ một khoản đầu tư nào về cơ bản phải có giá trị cao hơn so với giá một nhà đầu tư trả cho nó. Ông tin vào phân tích cơ bản và tìm kiếm những công ty có bảng cân đối thu chi tốt hoặc những công ty mắc ít nợ, lợi nhuận trên mức trung bình và có lưu lượng tiền mặt dồi dào.
John Templeton
John Templeton là một trong những nhà đầu tư ngược trào lưu hàng đầu của thế kỷ XX. Người ta đã nói về John Templeton rằng: “Ông mua cổ phiếu dưới đáy trong thời kỳ suy thoái, bán ở đỉnh trong thời kỳ bùng nổ Internet và có vô số vụ đầu tư thành công khác giữa hai thời kỳ”. Templeton đã tạo dựng nên một vài quỹ đầu tư quốc tế lớn và thành công nhất thế giới. Ông đã bán Quỹ Templeton của mình cho Tập đoàn Franklin vào năm 1992. Vào năm 1999, Tạp chí Money bầu chọn ông là “Người lựa chọn cổ phiếu đầu tư vĩ đại nhất thế kỷ”. Templeton còn được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước hiệp sĩ vì những thành quả của mình.
Thomas Rowe Price, Jr
Thomas Rowe Price, Jr được xem là “cha đẻ của đầu tư tăng trưởng”. Ông đã dành nhiều năm để vật lộn với cuộc suy thoái và bài học ông rút ra là không nên đứng ngoài mà phải nhảy vào đầu tư cổ phiếu. Theo Price, thị trường tài chính luôn có tính chu kỳ. Là một nguời “đi ngược số đông”, ông chọn cách đầu tư dài hạn vào các công ty tốt mà hầu như chưa được nghe nói đến vào thời điểm đó. Triết lý đầu tư của ông là các nhà đầu tư phải chú trọng vào việc lựa chọn từng cổ phiếu cho đầu tư dài hạn. Kỷ luật, sự nhất quán trong suốt quá trình và nghiên cứu cơ bản đã trở thành nền tảng cho nghiệp đầu tư thành công của ông.
John Neff
Neff đã gia nhập Tập đoàn Quản lý Wellington vào năm 1964 và trở thành nhà quản lý các quỹ Winsor, Gemini và Qualified Dividend. Chiến thuật đầu tư ưa thích của ông là đầu tư vào các ngành công nghiệp phổ biến thông qua con đường gián tiếp. Ông được xem là một nhà đầu tư giá trị khi ông tập trung vào các công ty có chỉ số P/E thấp và lãi suất cổ tức cao.
Hai trong số các chiến thuật đầu tư của John Neff là mua khi có tin xấu, sau khi cổ phiếu sụt giá mạnh và chiến lược "đi đường vòng" để mua cổ phiếu của các ngành đang thịnh hành.
Ví dụ: mua cổ phiếu của các nhà sản xuất ống dẫn dầu - những nhà cung cấp của các công ty dầu khí thay vì mua những cổ phiếu đang "nóng" của chính các công ty dầu khí này vì theo Neff là quá đắt đỏ. Ông đã điều hành quỹ Windsor khoảng 31 năm (ông về hưu vào năm 1995) và mang về doanh thu 13,7% cao hơn so với doanh thu của S&P 500 (10,6%) trong cùng khoảng thời gian. Số tiền này tăng gấp 55 lần so với khoản đầu tư đầu tiên được thực hiện năm 1964.
Jesse Livermore
Jesse Livermore không hề nhận được sự giáo dục bài bản cũng như kinh nghiệm giao dịch chứng khoán. Ông là một nhà đầu tư tự lập, người đã học hỏi từ những người chiến thắng cũng như những kẻ thất bại trên thị trường thị chứng khoán. Chính những thành công và thất bại này đã giúp ông có được ý tưởng kinh doanh xi măng, một lĩnh vực vẫn đang rẩt phổ biến trên thị trường hiện nay.
Livermore bắt đầu công việc kinh doanh của mình ở tuổi niên thiếu và đến tuổi 15 ông đã thu được lợi nhuận trên 1.000 USD. Đây là số tiền tương đối lớn vào thời gian đó. Trong những năm tiếp theo, Livermore kiếm được nhiều tiền đến mức ông bị cấm tham gia giao dịch cổ phiếu ở những công ty hoạt động chui ở Boston và New York, bởi ông đã khiến những công ty này mất đi khoản lợi nhuận của mình. Với thành công này, người ta đã đặt cho ông biệt danh là “Chú bé đầu cơ”.
Peter Lynch
Peter Lynch quản lý quỹ Fidelity Magellan từ năm 1977 đến năm 1990. Trong khoảng thời gian đó, giá trị tài sản của quỹ tăng từ 20 triệu USD lên 14 tỷ USD. Quan trọng hơn, Lynch đã vượt điểm chuẩn của chỉ số S&P 500 11 năm trong tổng số 13 năm quản lý, và đạt được doanh thu trung bình hàng năm tăng là 29%.
Thường được miêu tả là “kẻ hoạt đầu”, Peter Lynch dễ thích nghi với bất kỳ kiểu đầu tư nào đang hoạt động vào thời điểm đó. Tuy nhiên, khi đề cập đến việc lựa chọn cổ phiếu cụ thể, ông luôn trung thành với những gì ông biết hoặc có thể hiểu được một cách dễ dàng.
George Soros
George Soros là bậc thầy biến những xu hướng kinh tế chung trở thành những cái có tính đòn bẩy cao và là “kẻ giết người” trong lĩnh vực trái phiếu và tiền tệ. Soros là một nhà đầu cơ ngắn hạn, có những cú đặt cược lớn vào những chỉ dẫn của thị trường tài chính. Vào năm 1973, George Soros đã thành lập Công ty Quản lý Quỹ Dự phòng Soros , sau đó đã phát triển thành Quỹ Quantum nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng. Trong gần hai thập kỷ, ông đã điều hành quỹ dự phòng thành công và linh hoạt với doanh thu trung bình tăng vượt quá 30% /năm và hai lần doanh thu hàng năm tăng 100%.
Warren Buffett
Thường được biết đến với cái tên “Nhà tiên tri của vùng Omaha”, Warren Buffett được xem là một trong những nhà đầu tư thành công nhất trong lịch sử.
Đi theo những nguyên tắc của Benjamin Graham, ông đã tích lũy được một lượng tài sản trị giá hàng tỷ USD, chủ yếu qua việc mua cổ phiếu và các công ty khác thông qua công ty chủ quản Berkshire Hathaway. Những người đầu tư 10.000 vào Berkshire Hathaway trong năm 1965, hiện đã có mức tài khoản vượt quá 50 triệu USD.
Phong cách đầu tư kỷ luật, kiên nhẫn và giá trị của Buffett luôn có hiệu quả và phù hợp với thị trường trong nhiều thập kỷ.
John (Jack) Bogle
Bogle đã thành lập Tập đoàn Quản lý Đầu tư Vanguard vào năm 1974, và biến nó trở thành một trong những công ty quản lý quỹ lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới. Bolge là người đi tiên phong trong việc điều hành quỹ không thu phí bán (mutual fund) và là nhà vô địch trong việc đầu tư vào các chỉ số có giá thấp trong số hàng triệu nhà đầu tư. Ông đã tạo ra và giới thiệu quỹ đầu tư theo chỉ số đầu tiên Vanguard 500 vào năm 1976.
Triết lý đầu tư của Jack Bogle là chủ trương nắm bắt thị trường bằng cách đầu tư vào các quỹ tương hỗ theo chỉ số trên diện rộng, những quỹ có đặc trưng là không thu phí bán, giá trị thấp, doanh thu thấp và được quản lý một cách thụ động.
Carl Icahn
Carl Icahn là một nhà hoạt động và là một nhà đầu tư “gây thù oán”. Ông thường sử dụng quyền sở hữu trong các công ty đại chúng để tạo ra những thay đổi nhằm làm tăng giá trị cổ phiếu của mình. Icahn bắt đầu hoạt động săn lùng doanh nghiệp một cách nghiêm túc vào cuối những năm 1970 và đánh bại trong các “giải đấu lớn” bằng việc tiếp quản tập đoàn hàng không xuyên quốc gia Mỹ TWA vào năm 1985.
Icahn còn được mệnh danh là nhà đầu tư chuyên “đào mỏ” phố Wall để làm giàu. Ông là nhà đầu tư mà đối thủ khiếp sợ. Đặc biệt các công ty niêm yết, các công ty cổ phần luôn luôn lo lắng khi biết Carl Icahn có ý định đầu tư vào đó. Bởi Carl Icahn tìm mọi cách để đạt được mục tiêu và sở thích "chiếm đoạt" công ty của mình.
William H. Gross
Đuợc xem là “ông vua trái phiếu”, Bill Gross là nhà quản lý quỹ trái phiếu hàng đầu thế giới. Là người sáng lập đồng thời là giám đốc quản lý của đại gia đình các quỹ trái phiếu PIMCO, ông và đồng đội của mình hiện quản lý hơn 600 tỷ USD tài sản thu nhập cố định.
Năm 1996, Gross là nhà quản lý danh mục đầu tư đầu tiên được vinh danh vào Hiệp hội các nhà phân tích thu nhập cố định FIASI danh tiếng vì những đóng góp cho sự tiến bộ về phân tích trái phiếu và danh mục đầu tư.
Chú thích:
- Quỹ tương hỗ (hay quỹ đầu tư): đơn giản là một hình thức đầu tư trung gian cho phép một nhóm các nhà đầu tư tập trung tiền vào một mục đích đầu tư đã xác định. Quỹ tương hỗ sẽ có người quản lý chịu trách nhiệm đầu tư số tiền tập trung được để đầu tư vào các loại chứng khoán đã xác định (thường là cổ phiếu hoặc trái phiếu).
- Quỹ tương hỗ đầu tư theo chỉ số: là quỹ hỗ tương đầu tư có danh mục đầu tư gắn liền với chỉ số có tầm rộng như chỉ số Standard & Poor's và vì thế các diễn biến của nó phản ảnh toàn cảnh thị trường.
Dịch từ http://www.investopedia.com

Benjamin Graham
Benjamin Graham là một quản lý đầu tư và là nhà giáo dục tài chính xuất sắc. Ông là tác giả của hai tác phẩm kinh điển về đầu tư là “Securities Analysis - Phân tích chứng khoán” và “The Intelligent Investor - Nhà đầu tư thông minh”. Ông cũng được công nhận là cha đẻ của hai nguyên tắc đầu tư cơ bản là phân tích chứng khoán và đầu tư giá trị.
Bản chất nguyên tắc đầu tư giá trị của Graham là bất kỳ một khoản đầu tư nào về cơ bản phải có giá trị cao hơn so với giá một nhà đầu tư trả cho nó. Ông tin vào phân tích cơ bản và tìm kiếm những công ty có bảng cân đối thu chi tốt hoặc những công ty mắc ít nợ, lợi nhuận trên mức trung bình và có lưu lượng tiền mặt dồi dào.
John Templeton
John Templeton là một trong những nhà đầu tư ngược trào lưu hàng đầu của thế kỷ XX. Người ta đã nói về John Templeton rằng: “Ông mua cổ phiếu dưới đáy trong thời kỳ suy thoái, bán ở đỉnh trong thời kỳ bùng nổ Internet và có vô số vụ đầu tư thành công khác giữa hai thời kỳ”. Templeton đã tạo dựng nên một vài quỹ đầu tư quốc tế lớn và thành công nhất thế giới. Ông đã bán Quỹ Templeton của mình cho Tập đoàn Franklin vào năm 1992. Vào năm 1999, Tạp chí Money bầu chọn ông là “Người lựa chọn cổ phiếu đầu tư vĩ đại nhất thế kỷ”. Templeton còn được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước hiệp sĩ vì những thành quả của mình.
Thomas Rowe Price, Jr
Thomas Rowe Price, Jr được xem là “cha đẻ của đầu tư tăng trưởng”. Ông đã dành nhiều năm để vật lộn với cuộc suy thoái và bài học ông rút ra là không nên đứng ngoài mà phải nhảy vào đầu tư cổ phiếu. Theo Price, thị trường tài chính luôn có tính chu kỳ. Là một nguời “đi ngược số đông”, ông chọn cách đầu tư dài hạn vào các công ty tốt mà hầu như chưa được nghe nói đến vào thời điểm đó. Triết lý đầu tư của ông là các nhà đầu tư phải chú trọng vào việc lựa chọn từng cổ phiếu cho đầu tư dài hạn. Kỷ luật, sự nhất quán trong suốt quá trình và nghiên cứu cơ bản đã trở thành nền tảng cho nghiệp đầu tư thành công của ông.
John Neff
Neff đã gia nhập Tập đoàn Quản lý Wellington vào năm 1964 và trở thành nhà quản lý các quỹ Winsor, Gemini và Qualified Dividend. Chiến thuật đầu tư ưa thích của ông là đầu tư vào các ngành công nghiệp phổ biến thông qua con đường gián tiếp. Ông được xem là một nhà đầu tư giá trị khi ông tập trung vào các công ty có chỉ số P/E thấp và lãi suất cổ tức cao.
Hai trong số các chiến thuật đầu tư của John Neff là mua khi có tin xấu, sau khi cổ phiếu sụt giá mạnh và chiến lược "đi đường vòng" để mua cổ phiếu của các ngành đang thịnh hành.
Ví dụ: mua cổ phiếu của các nhà sản xuất ống dẫn dầu - những nhà cung cấp của các công ty dầu khí thay vì mua những cổ phiếu đang "nóng" của chính các công ty dầu khí này vì theo Neff là quá đắt đỏ. Ông đã điều hành quỹ Windsor khoảng 31 năm (ông về hưu vào năm 1995) và mang về doanh thu 13,7% cao hơn so với doanh thu của S&P 500 (10,6%) trong cùng khoảng thời gian. Số tiền này tăng gấp 55 lần so với khoản đầu tư đầu tiên được thực hiện năm 1964.
Jesse Livermore
Jesse Livermore không hề nhận được sự giáo dục bài bản cũng như kinh nghiệm giao dịch chứng khoán. Ông là một nhà đầu tư tự lập, người đã học hỏi từ những người chiến thắng cũng như những kẻ thất bại trên thị trường thị chứng khoán. Chính những thành công và thất bại này đã giúp ông có được ý tưởng kinh doanh xi măng, một lĩnh vực vẫn đang rẩt phổ biến trên thị trường hiện nay.
Livermore bắt đầu công việc kinh doanh của mình ở tuổi niên thiếu và đến tuổi 15 ông đã thu được lợi nhuận trên 1.000 USD. Đây là số tiền tương đối lớn vào thời gian đó. Trong những năm tiếp theo, Livermore kiếm được nhiều tiền đến mức ông bị cấm tham gia giao dịch cổ phiếu ở những công ty hoạt động chui ở Boston và New York, bởi ông đã khiến những công ty này mất đi khoản lợi nhuận của mình. Với thành công này, người ta đã đặt cho ông biệt danh là “Chú bé đầu cơ”.
Peter Lynch
Peter Lynch quản lý quỹ Fidelity Magellan từ năm 1977 đến năm 1990. Trong khoảng thời gian đó, giá trị tài sản của quỹ tăng từ 20 triệu USD lên 14 tỷ USD. Quan trọng hơn, Lynch đã vượt điểm chuẩn của chỉ số S&P 500 11 năm trong tổng số 13 năm quản lý, và đạt được doanh thu trung bình hàng năm tăng là 29%.
Thường được miêu tả là “kẻ hoạt đầu”, Peter Lynch dễ thích nghi với bất kỳ kiểu đầu tư nào đang hoạt động vào thời điểm đó. Tuy nhiên, khi đề cập đến việc lựa chọn cổ phiếu cụ thể, ông luôn trung thành với những gì ông biết hoặc có thể hiểu được một cách dễ dàng.
George Soros
George Soros là bậc thầy biến những xu hướng kinh tế chung trở thành những cái có tính đòn bẩy cao và là “kẻ giết người” trong lĩnh vực trái phiếu và tiền tệ. Soros là một nhà đầu cơ ngắn hạn, có những cú đặt cược lớn vào những chỉ dẫn của thị trường tài chính. Vào năm 1973, George Soros đã thành lập Công ty Quản lý Quỹ Dự phòng Soros , sau đó đã phát triển thành Quỹ Quantum nổi tiếng và được nhiều người tôn trọng. Trong gần hai thập kỷ, ông đã điều hành quỹ dự phòng thành công và linh hoạt với doanh thu trung bình tăng vượt quá 30% /năm và hai lần doanh thu hàng năm tăng 100%.
Warren Buffett
Thường được biết đến với cái tên “Nhà tiên tri của vùng Omaha”, Warren Buffett được xem là một trong những nhà đầu tư thành công nhất trong lịch sử.
Đi theo những nguyên tắc của Benjamin Graham, ông đã tích lũy được một lượng tài sản trị giá hàng tỷ USD, chủ yếu qua việc mua cổ phiếu và các công ty khác thông qua công ty chủ quản Berkshire Hathaway. Những người đầu tư 10.000 vào Berkshire Hathaway trong năm 1965, hiện đã có mức tài khoản vượt quá 50 triệu USD.
Phong cách đầu tư kỷ luật, kiên nhẫn và giá trị của Buffett luôn có hiệu quả và phù hợp với thị trường trong nhiều thập kỷ.
John (Jack) Bogle
Bogle đã thành lập Tập đoàn Quản lý Đầu tư Vanguard vào năm 1974, và biến nó trở thành một trong những công ty quản lý quỹ lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới. Bolge là người đi tiên phong trong việc điều hành quỹ không thu phí bán (mutual fund) và là nhà vô địch trong việc đầu tư vào các chỉ số có giá thấp trong số hàng triệu nhà đầu tư. Ông đã tạo ra và giới thiệu quỹ đầu tư theo chỉ số đầu tiên Vanguard 500 vào năm 1976.
Triết lý đầu tư của Jack Bogle là chủ trương nắm bắt thị trường bằng cách đầu tư vào các quỹ tương hỗ theo chỉ số trên diện rộng, những quỹ có đặc trưng là không thu phí bán, giá trị thấp, doanh thu thấp và được quản lý một cách thụ động.
Carl Icahn
Carl Icahn là một nhà hoạt động và là một nhà đầu tư “gây thù oán”. Ông thường sử dụng quyền sở hữu trong các công ty đại chúng để tạo ra những thay đổi nhằm làm tăng giá trị cổ phiếu của mình. Icahn bắt đầu hoạt động săn lùng doanh nghiệp một cách nghiêm túc vào cuối những năm 1970 và đánh bại trong các “giải đấu lớn” bằng việc tiếp quản tập đoàn hàng không xuyên quốc gia Mỹ TWA vào năm 1985.
Icahn còn được mệnh danh là nhà đầu tư chuyên “đào mỏ” phố Wall để làm giàu. Ông là nhà đầu tư mà đối thủ khiếp sợ. Đặc biệt các công ty niêm yết, các công ty cổ phần luôn luôn lo lắng khi biết Carl Icahn có ý định đầu tư vào đó. Bởi Carl Icahn tìm mọi cách để đạt được mục tiêu và sở thích "chiếm đoạt" công ty của mình.
William H. Gross
Đuợc xem là “ông vua trái phiếu”, Bill Gross là nhà quản lý quỹ trái phiếu hàng đầu thế giới. Là người sáng lập đồng thời là giám đốc quản lý của đại gia đình các quỹ trái phiếu PIMCO, ông và đồng đội của mình hiện quản lý hơn 600 tỷ USD tài sản thu nhập cố định.
Năm 1996, Gross là nhà quản lý danh mục đầu tư đầu tiên được vinh danh vào Hiệp hội các nhà phân tích thu nhập cố định FIASI danh tiếng vì những đóng góp cho sự tiến bộ về phân tích trái phiếu và danh mục đầu tư.
Chú thích:
- Quỹ tương hỗ (hay quỹ đầu tư): đơn giản là một hình thức đầu tư trung gian cho phép một nhóm các nhà đầu tư tập trung tiền vào một mục đích đầu tư đã xác định. Quỹ tương hỗ sẽ có người quản lý chịu trách nhiệm đầu tư số tiền tập trung được để đầu tư vào các loại chứng khoán đã xác định (thường là cổ phiếu hoặc trái phiếu).
- Quỹ tương hỗ đầu tư theo chỉ số: là quỹ hỗ tương đầu tư có danh mục đầu tư gắn liền với chỉ số có tầm rộng như chỉ số Standard & Poor's và vì thế các diễn biến của nó phản ảnh toàn cảnh thị trường.
Dịch từ http://www.investopedia.com
--- www.websachviet.blogspot.com ---

- Kỹ Năng Sống - Chìa Khóa Đến Thành Công
- Ước Mơ - Hạt Giống Của Thành Công
- 3 Bí Quyết Để Đạt Được Sự Giàu Có Nhờ Luật Hấp Dẫn
- 5 Nguyên Tắc Thành Công Trong Giao Tiếp Ứng Xử
- Tháo Bỏ "Gông Xiềng" Để Phát Triển Trí Sáng Tạo
- 8 Niềm Tin Cốt Lõi Của Những Người Lãnh Đạo Ưu Tú
- 3 Từ Kỳ Diệu Thay Đổi Toàn Bộ Cuộc Sống
- Ashley và Câu Chuyện Thành Công Nhờ Internet
- Hãy Để Thương Hiệu Của Bạn Luôn Trong Tim Người Dùng
- Năm Bí Mật Về Nghệ Thuật Makerting Cho Giới Trẻ
- 23 Bí Quyết Làm Việc Ít Hiệu Quả Cao
- Google Với Nghệ Thuật Quản Lý Dự Án Và Cách Tân
Comments[ 0 ]
Post a Comment